1. Các giá trị Truyền thống văn hóa.
Thành phần dân tộc ở xã Đức Hồng gồm ba dân tộc Tày, Nùng, Kinh. Người Tày - Nùng, sinh sống trên vùng đất Đức Hồng cách đây 3, 4 thế kỷ với các dòng họ chính: Đàm, Mông, Lý, Nông, Triệu, Trương, Hoàng, Phùng… Thời Pháp thuộc, người Tày còn được gọi là người Thổ - với ý nghĩa đây là những người sinh ra và lớn lên làm chủ vùng đất Cao Bằng từ rất lâu đời, là thổ dân vùng đất Cao Bằng. Bản làng của người Tày tập trung chủ yếu ở vùng trung tâm xã.
Người Tày - Nùng ở Đức Hồng sinh sống sen kẽ với nhau, có tập quán cấy lúa nước, khai thác những vùng đất phì nhiêu, họ biết đắp đập, khơi mương đưa nước vào ruộng, trồng ngô và cây hoa màu, rau quả, và một số ít các ngành, nghề thủ công như ấp vịt thủ công đến nay tại xóm Lũng Nà, xóm Đầu Cầu, Nà Khiêu vẫn còn duy trì, phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân và phục vụ con giống vịt cỏ trong toàn huyện.
Người Kinh sinh sống tập trung ở giáp thị trấn hoạt động kinh tế chủ yếu là kinh doanh các loại hàng hóa, lương thực, thực phẩm, sửa chữa xe máy...
Trong tiến trình lịch sử, các dân tộc ở Đức Hồng đã phải trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ vừa để giữ gìn, bảo vệ tấc đất non sông, vừa phải chinh phục thiên nhiên để sinh tồn và phát triển. Chính quá trình đấu tranh đó đã khiến cho các dân tộc tạo dựng được bản sắc văn hóa đặc trưng của mình. Đặc trưng đó thể hiện qua ẩm thực ngày lễ, tết.
Vào dịp tết Nguyên đán, người dân thường làm bánh chưng, bánh khảo, chè lam, thịt lợn, thịt gà. Tết Thanh minh, Lễ tảo mộ (Mùng 3/3 âm lịch), người dân Đức Hồng có xôi ngũ sắc (với 5 màu: đỏ, đen, vàng, tím, xanh), thịt lợn, măng nhồi, gà, cá. Tết Trung nguyên (Rằm tháng Bảy), người dân chế biến các món ăn như bánh gai, bún và thịt vịt. Ngày mùng 9/9 âm lịch, người dân địa phương ăn lúa mới. Tết Đông chí thì làm bánh coóng phù ăn nóng với nước đường, gừng để làm ấm cơ thể.
Đời sống tín ngưỡng của các dân tộc Đức Hồng nổi bật lên việc thờ cúng tổ tiên, thờ thổ công và thần nông. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà, thường là gian giữa. Bàn thờ phần lớn đặt 3 bát hương. Hằng năm, nghi lễ thay chân hương thường được tiến hành vào chiều 30 tết âm lịch.
Tục lệ thờ cúng thổ công được thể hiện qua việc đồng bào dựng miếu tại trung tâm xóm. Đây là nơi linh thiêng của xóm, bà con đến để thắp hương cầu cho mọi người trong xóm bản no ấm, mùa màng bội thu. Các nghi lễ vòng đời truyền thống của đồng bào Tày, Nùng ở Đức Hồng mang nhiều nét đặc sắc.
Về thủ tục cưới, xin: Trong xã hội cũ, việc hỏi vợ lấy chồng do hai bên cha mẹ sắp đặt, tìm một người làm mối, rồi đem số mệnh của nam, nữ đi xem thầy mo. Nếu thấy hợp, nhà trai định ngày hồi mệnh, ngày ăn hỏi. Lễ ăn hỏi thường làm vào dịp tháng Giêng, lễ vật thường có bánh chưng và đùi lợn, nếu làm vào tết tháng Bảy thì có bánh gai và gà; khoảng ba năm sau mới cưới. Cưới xong, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có thai 7 tháng thì làm lễ đưa hồn gái về nhà chồng (rông moọc), khi đó mới về ở hẳn bên nhà chồng.
Ngày nay, những tập tục như trên không còn nữa, thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu nhau. Trước khi cưới, gia đình hai bên thỏa thuận về lễ cưới, có đăng ký kết hôn. Trong lễ cưới, bên nam có quan lang đón dâu, bên nữ cũng đưa dâu theo phong tục cổ truyền dân tộc, được nghe những câu chúc tụng tốt lành.
Về nghi lễ mừng thọ: Theo quan niệm của đồng bào Tày, Nùng, khi cha mẹ đến tuổi 49, 61, 73, 85 thì con cháu tổ chức lễ mừng thọ. Lễ mừng thọ thường được tổ chức vào tháng Giêng hằng năm. Trong ngày này, con gái trong gia đình phải làm thủ tục đi xin gạo hàng xóm để làm “gạo lường” và “lầu lường” cho “người đến thọ”. Thầy tào bụt làm trong 24 tiếng. Gia đình tổ chức mổ lợn, giết gà mời anh em đến ăn mừng, người đến mừng mang theo gạo và một tấm vải đỏ (cho người chúc thọ tuổi 49, 61) hoặc vải vàng (thọ 73, 85). Con rể đến có lợn quay, một gánh bánh chưng cùng tấm vải mang câu đối vẽ hoa văn. Trong đêm, thanh niên nam nữ tổ chức hát mừng thọ. Trưa hôm sau, giữa bữa cơm, con rể cả trong gia đình trèo lên gác nhà giữa, nơi đặt bàn thờ tổ tiên buộc “lầu lường” và chúc những câu thơ hay nhất cho ông ngoại (bố vợ) “sống lâu trăm tuổi”. Ngày nay, tuỳ theo điều kiện của từng gia đình mà tổ chức hay không tổ chức lễ mừng thọ. Nếu có tổ chức thì lễ mừng thọ cũng giảm bớt các thủ tục rườm rà.
Về đám tang: Khi gia đình có người mất, người thân tìm đến thầy mo xem ngày tháng và số mệnh từng người trong gia đình để phát tang. Những năm 1960 - 1970, hợp tác xã lo mai táng, phân công từng gia đình đóng góp (1 kg gạo, 1 lít rượu) giúp cho gia đình tang chủ.
Người dân Đức Hồng có đời sống văn nghệ dân gian đặc sắc với hát lượn then của người Tày và hát lượn Hà Lều của người Nùng. Các điệu hát có tính chất tổng kết các quy luật thời tiết, khí hậu bằng ngôn ngữ Nôm - Tày[1].
Người Tày ở Đức Hồng thường sử dụng Then vào những dịp trọng đại như lễ hội cầu đảo của gia đình, dòng họ vào dịp năm mới, sinh con đầu lòng, giải trừ tà ma và chữa bệnh. Hà Lều còn có tên gọi khác là lượn phủ. Hà Lều hát đôi, mỗi bên hai nam, hai nữ. Khi hát, họ lấy khuỷu tay chống bịt một tai để tập trung nghe giọng bạn mình cùng hát có thành bè hòa âm hợp lý chưa để tự điều chỉnh ngay. Nội dung các bài Lượn, Then thường là ôn lại quá khứ lịch sử về chống giặc ngoại xâm, ca ngợi quê hương, giao duyên về tình yêu đôi lứa.
Như vậy, có thể thấy, trong quá trình lao động sản xuất, cộng đồng các dân tộc vùng đất Đức Hồng đã hình thành, vun đắp nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp. Những nét văn hóa đó không chỉ thể hiện sự đa dạng, phong phú trong bản sắc văn hóa địa phương mà còn là động lực góp phần bảo vệ, xây dựng quê hương Đức Hồng qua các thời kỳ lịch sử.
2. Truyền thống cách mạng
Cùng với nền văn hóa dân tộc đặc sắc, nhân dân các dân tộc Đức Hồng có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc một vùng biên cương phía Bắc của nước ta.
Đầu thế kỷ XI, trước khi quân Tống tràn sang xâm lược nước ta, nhân dân Trùng Khánh trong đó có nhân dân vùng đất Đức Hồng dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Hoàng Lục (quê ở vùng Lũng Đính) đã vận động nhân dân xây hầm, đắp lũy kiên cố, tổ chức nghĩa quân nhiều lần đánh lùi các cuộc tiến công của giặc Tống, góp phần bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Thời nhà Trần, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh châu Thượng Lang là Hoàng Thắng Hứa, nhân dân vùng đất Đức Hồng đã đánh địch ngay sát biên giới, ngăn bước tiến của quân thù.
Trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh (thời Minh thuộc), dưới sự lãnh đạo của các tù trưởng dân tộc Tày là Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái, nhân dân Trùng Khánh, trong đó có vùng đất Cổ Phương, Tứ Mỹ, Cảnh Sơn (xã Đức Hồng ngày nay) đã đứng lên đấu tranh.
Thời nhà Nguyễn, trong cuộc đấu tranh chống giặc phương Bắc của nhân dân tổng Trà Lĩnh dưới sự chỉ huy của Nông Thống Lang, nhân dân Trùng Khánh trong đó nhiều người của Cổ Phương, Tứ Mỹ, Cảnh Sơn dũng cảm tham gia...
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Cuối tháng 10/1886, thực dân Pháp lần lượt đánh chiếm huyện Thạch An, Cao Bằng. Tháng 10/1887, thực dân Pháp đánh chiếm phủ Trùng Khánh. Nhân dân các dân tộc Trùng Khánh, Cao Bằng dưới sự lãnh đạo của lãnh binh Lương Tuấn Tú và các hào trưởng địa phương xây dựng căn cứ, liên tục tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thanh niên, trai tráng của tổng Ỷ Cống (châu Thượng Lang) tích cực gia nhập các đội nghĩa quân, tiến đánh quân Pháp, gây cho địch nhiều thiệt hại. Tiêu biểu như trận tập kích bao vây phủ Trùng Khánh bắn chết tên quan ba Ma-khô nô, bắn bị thương tên quan hai Guy-đơ-mê và một số binh lính địch; trận phục kích trên đường từ phủ Trùng Khánh đi Pò Tấu do bá hộ Lê Bá Tài chỉ huy, truy kích địch tới Hạ Lang, bắn chết tên quan tư Đa‑vi[1]. Phải đến năm 1895, thực dân Pháp mới đặt được ách thống trị của chúng tại Cao Bằng.
Sau khi chiếm đóng Cao Bằng, thực dân Pháp tiến hành ách thống trị hà khắc. Phủ Trùng Khánh được chia thành 6 tổng và 42 xã. Đứng đầu phủ có tri phủ do thực dân Pháp bổ nhiệm nhưng dưới quyền của quan ba đại lý, thực hiện chế độ quân sự để cai quản. Cấp tổng có chánh tổng và phó tổng, quản lý các xã trong tổng về chính trị và quân sự. Cấp xã, có các chức dịch lý trưởng, phó lý, kỳ mục, thủ bạ, làm các nhiệm vụ đốc thuế, bắt phu, bắt lính.
Đồng thời với chức dịch dân sự, thực dân Pháp bố trí chức dịch quân sự từ phủ xuống đến tổng, xã. Cấp phủ, xếp đặt châu đoàn có lính bảo vệ. Cấp tổng có tổng đoàn. Cấp xã có xã đoàn, lính dõng được trang bị đầy đủ vũ khí dưới quyền điều hành của quan tây.
Năm 1896, thực dân Pháp thành lập Chi khu quân sự Trùng Khánh nhằm bảo vệ bộ máy cai trị của chúng, đàn áp các phong trào yêu nước của quần chúng nhân dân. Chi khu quân sự Trùng Khánh do đại đội 12 lính khố đỏ chốt giữ. Dọc theo biên giới, thực dân Pháp xây dựng các đồn bốt do một đơn vị lính, đứng đầu là sĩ quan người Pháp chỉ huy, nhằm mục đích áp bức, bóc lột và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân; ngăn chặn sự liên hệ giữa phong trào cách mạng của Việt Nam với bên ngoài. Khi phong trào đấu tranh của nhân dân phát triển mạnh, thực dân Pháp lập thêm lực lượng cảnh sát gọi là lính cúp phăng.
Về văn hóa, xã hội, để dễ bề cai trị, thực dân Pháp thi hành chính sách “ngu dân”. Việc mở mang trường lớp không được chú trọng. Phủ Trùng Khánh rộng lớn chỉ có trường tiểu học đến lớp 4. Số châu còn lại chỉ có từ một đến hai lớp. Hậu quả của chính sách này là hơn 99% dân số của tổng Ỷ Cống bị mù chữ.
Về y tế, cả tỉnh Cao Bằng chỉ có một bệnh viện, số lượng giường bệnh hạn chế với một vài y sĩ, y tá và hộ lý. Người dân đau ốm thường chỉ trông chờ vào thầy lang hoặc thầy cúng, thậm chí phó mặc cho số phận. Làm lụng vất vả, đói rét cơ hàn nên nhiều nông dân địa phương bị bệnh lao phổi, sốt rét, kiết lỵ, thổ tả, thương hàn… cướp đi mạng sống. Việc sinh con tự nhiên, không có người đỡ là phổ biến, dẫn đến tình trạng trẻ chết khi sinh và sau sinh chiếm tỷ lệ không nhỏ. Dưới chế độ thực dân, phong kiến, nhân dân vùng đất Ỷ Cống bị áp bức, bóc lột nặng nề, cuộc sống vô cùng khổ cực.
Về phương diện sản xuất, thực dân Pháp duy trì ở Trùng Khánh nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, mang tính chất tự cung, tự cấp. Người dân Cổ Phương, Tứ Mỹ, Cảnh Sơn bị bóc lột nặng nề về kinh tế, chịu sưu cao, thuế nặng. Những thứ thuế như thuế đinh, thuế điền (có từ thời nhà Nguyễn) dưới chế độ thực dân Pháp tăng vọt. Riêng thuế thân được chia làm hai hạng: Hạng 4,5 đồng đối với nội tịch đinh và 0,5 đồng đối với ngoại tịch đinh. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp nhất loạt thu 2,5 đồng. Đến năm 1939, do nhu cầu chi phí chuẩn bị cho cuộc Chiến tranh thế giới mới, chính quyền thực dân nâng mức thuế thân và thu bốn mức dựa và số ruộng của mỗi suất đinh: loại 1 đồng, 2,5 đồng, 5 đồng và 7 đồng (thời điểm đó, giá một tạ gạo từ 3 đồng đến 4 đồng; giá một con trâu, bò cày được giá ở mức 4 đồng đến 5 đồng)[2]. Những ai không nộp được thuế thì bị đánh đập hoặc cầm cố tài sản.
Ngoài các hình thức bóc lột bằng thuế khóa, người dân phủ Trùng Khánh nói chung và khu vực Cổ Phương, Tứ Mỹ, Cảnh Sơn nói riêng còn phải chịu thêm gánh nặng của chế độ phu phen, tạp dịch để phục vụ bộ máy thống trị thực dân phong kiến: Xây dựng đồn bốt, pháo đài, làm cầu đường, đáp ứng nhu cầu chiến tranh và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Hằng năm, mỗi người dân trong độ tuổi lao động bị bắt đi phu từ 3 đến 4 đợt, kéo dài 15-20 ngày. Người dân đi phu phải tự túc tiền gạo, thực phẩm, dụng cụ lao động; làm việc nặng nhọc, không được cấp tiền công, ốm đau không được chăm sóc. Không ít dân phu đã bị kiệt sức hoặc bỏ mạng do chính sách bóc lột thậm tệ của chính quyền thực dân.
Với chính sách tài chính, thuế khóa thâm độc, tàn bạo, thực dân Pháp đã bóc lột người dân Cao Bằng nói chung, người dân Cổ Phương, Tứ Mỹ, Cảnh Sơn nói riêng đến tận xương tủy, đẩy họ vào con đường đói khổ, bần cùng hóa. Đó là nguyên nhân dẫn đến nhiều cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ, áp bức của thực dân, phong kiến.
Trong những năm 1927 - 1928, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền bá vào trong nước, ở Cao Bằng đã xuất hiện các tổ chức yêu nước như Hội đánh Tây, Hội Thanh niên phản đế… thu hút nhiều thanh niên yêu nước, tiến bộ tham gia, trong đó nổi bật và có ảnh hưởng hơn cả là Hoàng Đình Giong, một thanh niên dân tộc Tày ở xã Xuân Phách, huyện Hòa An (nay là phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng). Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền bá, đồng chí Hoàng Đình Giong đã vận động mở rộng các Hội Thanh niên phản đế, tổ chức gây dựng nhiều cơ sở của Hội đánh Tây ở các châu Hòa An, sau phát triển ra các châu miền Đông trong tỉnh (trong đó có các châu thuộc phủ Trùng Khánh). Nhờ vậy, phong trào cách mạng ở Trùng Khánh nói chung và tổng Ỷ Cống nói riêng phát triển mạnh mẽ hơn.
Cuối năm 1929, Chi bộ Hải ngoại Long Châu (Trung Quốc) được thành lập. Đồng chí Hoàng Đình Giong được bầu làm Bí thư Chi bộ. Chi bộ Long Châu có nhiệm vụ gây dựng và phát triển phong trào quần chúng cách mạng ở vùng biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn, hướng dẫn thanh niên yêu nước ra dự những lớp huấn luyện cách mạng ở nước ngoài, đưa đón cán bộ đi hoạt động giữa hai vùng biên giới.
Đầu năm 1930, Chi bộ Hải ngoại Long Châu cử đồng chí Hoàng Văn Nọn về Cao Bằng hoạt động để chuẩn bị tiến tới thành lập tổ chức Đảng ở đây. Ngày 01/4/1930, đồng chí Hoàng Văn Nọn thay mặt Chi bộ Long Châu, kết nạp hai đồng chí Lê Đoàn Chu và Nông Văn Đô (tức Bích Giang, Cát Lợi) vào Đảng, tuyên bố thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Cao Bằng tại Nặm Lìn, xã Hoàng Tung, châu Hòa An, do đồng chí Hoàng Văn Nọn làm Bí thư. Ngay sau khi thành lập, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên hoạt động như một “Tỉnh ủy lâm thời”, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh. Chi bộ chủ trương mở cơ sở đảng và cơ sở cách mạng ra các châu trong tỉnh; tổ chức tập hợp quần chúng tiến hành đấu tranh cách mạng. Từ đây, phong trào cách mạng ở Cao Bằng bước sang một giai đoạn mới.
[1] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trùng Khánh, Lịch sử Đảng bộ huyện Trùng Khánh 1930 - 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.29.
[2] Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930 - 2020), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2020, tr.32.
[1] Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng, Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, Quyển III, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.625.